CÁC CHÚ DẪN LINH THAO (Kỳ 2 – tiếp theo)

2. Người cho Linh Thao (chú dẫn thứ 2)

Đây là chỉ dẫn khởi đầu dành cho người cho Linh Thao: cho Linh Thao như thế nào và trong tinh thần nào. Cách thức tiến hành được giới thiệu trước (bởi chú dẫn này và các chú dẫn còn lại), rồi sau đó mới tới nội dung của hành trình. Vì thế, đối với người cho Linh Thao, phương pháp cho Linh Thao phải được coi là ưu tiên so với việc trình bày nội dung của các bài Linh Thao.

Người trình bày cho người khác một cách thức hay một dàn bài để suy gẫm hay chiêm niệm, phải kể một cách trung thành sự kiện (historia) để chiêm niệm hay suy gẫm, chỉ giải thích sơ lược và vắn tắt từng điểm. Vì nếu khởi từ một căn bản lịch sử xác thực (porque la persona que contempla, tomando el fundamento verdadero de la historia), người chiêm niệm tự mình suy nghĩ và lí luận mà gặp được điều gì giải thích hay giúp “cảm” sự kiện lịch sử ấy, hoặc nhờ tư duy hay nhờ ơn Chúa soi sáng tâm trí, họ sẽ thấy ý vị hơn và thu đạt kết quả thiêng liêng nhiều hơn là được người hướng dẫn diễn giải nhiều về nội dung sự kiện. Bởi vì không phải sự biết nhiều, nhưng chính sự cảm nếm bề trong mới làm thỏa mãn linh hồn.

Theo chú dẫn này, người cho Linh Thao không thể cho như thế nào cũng được, nhưng có một phương thức xác định nhằm đạt được điều mà bài Linh Thao hướng đến. Trước hết, người này “phải kể lại lịch sử cách trung thành” (debe narrar fielmente historia).

a. “Kể lại lịch sử cách trung thành”

Kể lại”. Kể lại nghĩa là truyền đạt một trình thuật. Khi một chất liệu được kể lại cách sống động hay đánh động, quá trình sở hữu hóa sẽ diễn ra dễ dàng hơn; khi đó, kiến thức được truyền đạt trở nên thú vị và trở thành một kinh nghiệm cá nhân.

Lịch sử”. Lịch sử là một trình thuật, trong mức độ nó được trình bày như là khởi điểm của việc giải thích (interpretation). Dù thuộc văn loại nào, điều được phát biểu được truyền thống linh đạo gọi là một “lịch sử” (chẳng hạn các trình thuật St 1 hay St 2-3 ; và từ « lịch sử » ở đây không theo nghĩa sử học hiện đại[1]) trong mức độ điều được phát biểu không chỉ là để truyền đạt một kiến thức nhưng còn gợi lên một cách giải thích, một cách đọc.

Người cho Linh Thao kể lại, dịch từng chữ trong tiếng TBN : “bằng cách chỉ lược qua bởi những điểm với những giải thích ngắn gọn hay tổng lược », và theo bản Vulgata: « bằng cách chỉ đi lướt qua các điểm chính và chỉ thêm vào những giải thích ngắn gọn »[2]. Một « điểm » là một mệnh đề được phát biểu ngắn gọn, cần được giải thích hay minh giải. Thánh I-nhã đòi hỏi việc trình bày lịch sử phải đi từ điểm này sang điểm kia, kèm theo một vài giải thích để soi sáng ý nghĩa của điều được trình bày, vừa đủ để việc giải thích cá nhân (interpretation) có thể được khởi động. Phải làm điều đó “một cách trung thành”, nghĩa là bằng cách trình bày lịch sử bằng các điểm, chứ không phải trình bày những giải thích, vốn là giải thích của chính người trình bày. Như thế, xét cho cùng, người cho điểm không cho giải thích của mình, nhưng cho điều đòi hỏi giải thích. Phần còn lại của chú dẫn giải thích lý do của đòi hỏi nêu trên.

Vì, khi…”. Người suy niệm phải vận dụng khả năng của mình để nối kết các ý tưởng được trình bày trong các điểm, trước hết để tri nhận ý nghĩa căn bản và để có thể, sau đó, chính mình giải thích ý nghĩa đó. Như thế, người suy niệm, ngoài kinh nghiệm lĩnh hội được một kiến thức, nghĩa là nội dung của các điểm, còn trải qua kinh nghiệm chính mình hiểu được điều mà các điểm gợi ra.

Như trên đã nói, người cho điểm cho chất liệu để giải thích, chứ không cho những giải thích. Tuy nhiên, dù khách quan đến mấy, việc trình bày cũng luôn chứa đựng ít nhiều những giải thích của người trình bày. Chẳng hạn, ngay giọng nói cũng đã là giải thích rồi. Vì thế, thánh I-nhã đòi hỏi rằng giải thích và tính khách quan phải đúng, sao cho, người đón nhận có thể, đến lượt mình, giải thích một cách tự do, nhưng khởi đi từ một nền tảng đúng đắn. Đó chính là ý nghĩa của câu « Vì người chiêm niệm, một khi khởi đi từ nền tảng đích thật của lịch sử » (porque la persona que contempla, tomando el fundamento verdadero de la historia) ; “Nền tảng đích thật của lịch sử” nghĩa là tương quan đúng giữa cách trình bày (cách thức kể lại khi cho điểm) với điều được kể lại (“lịch sử” hay trình thuật).

Chính khoảng cách này cho phép trí khôn hoạt động tích cực, và qua đó “ý vị” xuất hiện khởi từ tự do sáng tạo của người tập Linh Thao. Ý vị, nghĩa là nhận thức tinh tế về sự hòa hợp khi người luyện tập « tìm ra được gì đó giúp giải thích và làm cho mình cảm nếm lịch sử hơn một chút »[3]

c. Hai giai đoạn

Người làm Linh Thao được mời gọi vận dụng hoạt động nhận thức và sáng tạo cá nhân qua hai giai đoạn: khả năng của chính mình và kinh nghiệm về ân sủng.

Giai đoạn tự nhiên. Người cho Linh Thao nhắm đến khả năng nhân linh của người tập; vì sẽ là thử thách Thiên Chúa, nếu bắt Thiên Chúa phải hành động bởi ân sủng của Ngài và dự trù trước một hành động siêu nhiên mà không để ý cách nghiêm túc đến chiều kích nhân linh. Quan trọng là phải vận dụng tất cả để cho chiều kích nhân linh được thể hiện. Nếu không sự khác biệt giữa tự nhiên và ân sủng sẽ không được nhận thức bởi người làm Linh Thao, như là kết quả từ kinh nghiệm cá nhân của riêng mình, nhưng chỉ là từ sự truyền đạt kinh nghiệm của người khác.

“Cảm được” (sentir), đồng thời vừa là hiểu, vừa là nghiệm. Cảm được điều gì, bởi vì tôi hiểu được nó. Khi tôi hiểu bằng trí hiểu của tôi, tôi có cảm xúc về điều đó, cảm xúc này được thể hiện dưới dạng thích thú. Và nếu có thích thú, thì sẽ có “ý vị”. Nếu người làm Linh Thao đã có thể “tìm ra”, bởi những nỗ lực trí năng riêng của mình, mà vẫn chưa nhận ra rằng chính Chúa ban cho mình điều đó, thì đó là giai đoạn một, có một tầm quan trọng đặc biệt. Người đó thực hiện kinh nghiệm hiện hữu tự chính mình.

Giai đoạn ân sủng. Đây là một giai đoạn nền tảng hơn: khi kinh nghiệm được mình có thể hiện hữu bởi chính mình, người tập Linh Thao sẽ khám phá rằng chính mình như là quà tặng được đón nhận từ Thiên Chúa, như là ân sủng của Thiên Chúa.

Như thế, người cho Linh Thao được mời gọi nói không quá nhiều và cũng không quá ít, để cho người tập có kinh nghiệm đích thân: « A, chính tôi đã tìm ra! », hoặc người này cũng có thể qui về Chúa: « Đích thật là Chúa đã soi sáng cho tôi ». Cần phải làm cho trí năng người tập vận động bằng cách khởi đi từ trí khôn, nhưng để bước qua một chiều kích khác: ý vị và cảm nếm. Đó chính là điểm tới của kinh nghiệm thiêng liêng, và điều này mới làm cho linh hồn thỏa mãn.

3. Người làm Linh Thao (chú dẫn 3)

Vì khi thực hành những việc linh thao sau đây, chúng ta dùng trí khôn để suy nghĩ và ý muốn để yêu mến, nên phải chú ý điểm này là khi dùng ý muốn để tâm sự ngoài miệng hay trong lòng, với Chúa hay với các thánh, ta phải có thái độ cung kính hơn khi chỉ dùng trí khôn để hiểu biết.

(Tiếng TBN : Como en todos los ejercicios siguientes espirituales usamos de los actos del entendimiento discurriendo y de los de la voluntad afectando; advertamos que en los actos de la voluntad, cuando hablamos vocalmente o mentalmente con Dios nuestro Seđor o con sus santos, se requiere de nuestra parte mayor reverencia, que cuando usamos del entendimiento entendiendo).

Bản văn kể ra lần lượt các hành vi: suy nghĩ (discurriendo), được đánh động (afectando) và nói (hablamos); nhưng trong thực tế, cả ba hành vi này tương tác chặt chẽ với nhau: khi chúng ta được đánh động, chúng ta vẫn không ngừng quá trình suy nghĩ để hiểu; và khi nói, chúng ta vẫn không ngừng được đánh động.

Trong một bài Linh Thao, chúng ta không dừng lại ở mức độ được đánh động, nhưng còn phải nói lên lời với Chúa. Và khi nói chuyện với Chúa, ý muốn đòi hỏi nhiều sự kính trọng đối với Thiên Chúa hơn là khi ý muốn thúc đẩy hoạt động của trí khôn. Chính kinh nghiệm cảm nếm và được đánh động làm cho người tập nói được với Chúa và qua đó dẫn người tập vào tương quan thực sự và sống động với Thiên Chúa; tương quan này được thể hiện ở sự kính trọng. Như thế, rốt cuộc, theo chú dẫn 3, tâm tình kính trọng, được hiểu như thế, còn căn bản hơn là chính nội dung của cuộc tâm sự.

“Thốt lên lời”, vì đi đôi với sự kính trọng, nên ‘”lời” ở đây phải được hiểu ở mức độ tận căn nhất, nghĩa là sự diễn tả độc đáo của một ngôi vị, vì thế nó chứa đựng mật độ hữu thể ở mức cao nhất; do đó, “lời” ở mức độ này như được cưu mang và được sinh ra. Như vậy, “lời” khác với bài diễn văn soạn sẵn, những mẫu câu mà mình tự tạo ra hay do môi trường (sách vở, thầy dạy, …) áp đặt, sao cho phù hợp với hình ảnh mà người khác hay chính mình chờ đợi.

Như thế, rốt cuộc, đi tới được hành động “thốt lên lời”, là đã đạt được điều mình tìm kiếm trong Linh Thao[4]. Nó không được muốn cách trực tiếp, vì nó không thuộc quyền của ý chí. Nhưng người tập có thể ước ao nói được Chúa và muốn “tâm sự” với Chúa qua đó hy vọng đi vào kinh nghiệm “lời”. Vì thế, ơn xin luôn hướng tới khả thể được đánh động (chẳng hạn, xin xấu hổ, bối rối), vì tâm cảm cho phép nói lên lời cách thực sự (chứ không phải diễn văn).

Chú dẫn này xác định một cấu trúc sẽ chi phối tất cả các bài Linh Thao: “trong các bài tập tiếp theo”. Hoạt động tích cực của trí năng, rồi của ý muốn để đi đến chỗ nói lên lời, định hướng cho hoạt động tinh thần (trí năng và ý muốn) nhằm hướng tới một hình thức hoạt động khác mà chúng ta có thể gọi là “hoạt động thân thể”, bởi vì nói là sự hài hòa giữa ý tưởng và sự vận hành của hơi thở và cơ quan phát âm của cơ thể.

Hoạt động của trí khôn

(tinh thần)

=>

Hoạt động của ý muốn

(cảm xúc)

=>

Hoạt động thân thể

(lời nói)

Tiến trình này có một điểm nhắm, đó là thốt lên lời; điều mà cả hoạt động tinh thần của trí năng lẫn tâm cảm phải hướng tới và giúp để cho xẩy ra. Nếu không có quá trình bao gồm những diễn biến tuần tự này, người tập luyện chỉ nói lên một bài diễn văn được suy tính, hoặc như là một món súp tình cảm, mang dáng vẻ của “Lời Chân Thực”.

 

Kết luận

  • Chú dẫn 3 trình bày diễn biến căn bản chi phối mọi bài linh thao, và nó cho thấy động cơ hoạt động như thế nào để cho phép người tập đi tới.
  • Tuân thủ chú dẫn 2 và 3 là điều thiết yếu, nếu không, người tập sẽ chỉ thực hiện một hành trình linh thao thuần trí não hay cảm tính; và cả hai đều không phải là kinh nghiệm thiêng liêng đích thật, trong mức độ không liên quan đến mọi chiều kích của hữu thể. Trong trường hợp này, người tập luyện bị dẫn dắt đi bằng « sức mạnh » đến từ người hướng dẫn độc đoán hoặc thích thu hút và chinh phục người khác, cho dù người này có những ý định rất tốt lành.
  • Đối với người cho Linh Thao, phương pháp quan trọng hơn nội dung, cho dù trong thực tế, cần xác định nội dung trước để vận dụng phương pháp.
Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

[1] Vì thế, dịch “historia” là “sự kiện” có lẽ khó tránh được ý nghĩa của sử học hiện đại.

[2] Bản Autograh: “discurriendo solamente por los puntos,con breve o sumaria declaración”; và bản Vulgata: “percursis obiter dumtaxat punctis illius praecipuis, et adiecta solum brevi declaratiuncula”

[3] Câu hỏi thảo luận: ngày nay phải cho điểm như thế nào, khi mà người thời thánh I-nhã và người thời nay không có cùng một hiểu biết về bản văn Kinh Thánh?

[4] Có thể khác với điều chúng ta thường nghĩ về mục đích của cầu nguyện.

Cảm nhận

Cảm nhận

Share →

Leave a Reply

Your email address will not be published.

thirteen − 1 =